Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần “Redemptor Hominis”

 

Tổng Quan

Sau 5 tháng được tuyển làm Giáo Hoàng vào ngày 16/10/1978, ĐTC Gioan Phaolô II đã công bố bức thông điệp đầu tiên của mình là “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” cho tất cả mọi tín hữu, một văn kiện Ngài ký ngày Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay 4/3/1979 và đã chính thức ban hành ngày 15/3/1979. Nhân dịp kỷ niệm 25 năm bức thông điệp mở màn là nồng cốt cho cả giáo triều của ĐTC GPII, vị vào ngày 14/3/2004, đã đứng vào hàng thứ ba cai trị giáo hội lâu đời trong lịch sử Giáo Hội, thiết tưởng cũng nên có một cái nhìn tổng quan về bức thông điệp quan trọng này.

Trong bức thông điệp ra mắt của mình, vị tân Giáo Hoàng của 25 năm 5 tháng trước đây đã vạch định những mục tiêu chính cho giáo triều của mình, như vấn đề nỗ lực lôi kéo tất cả mọi người về với Chúa Kitô, vấn đề đại kết, vấn đề nhu cầu cần phải củng cố chiều kích luân lý nơi việc tiến bộ cũng như vấn đề bênh vực nhân quyền. Đó là những công việc Giáo Hội cần phải đối diện để tiến vào ngàn năm thứ ba theo chiều hướng được tóm gọn nơi câu mở đầu của bức thông điệp: “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần, Chúa Giêsu Kitô, là tâm điểm của vũ trụ và của lịch sử”.

Bức thông điệp được chia làm 4 chương thứ tự như sau: “Gia Sản”, “Mầu Nhiệm Cứu Chuộc”, “Con Người được cứu chuộc và Tình Trạng của họ trong Thế Giới Tân Tiến”, và “Sứ Vụ của Giáo Hội và Định Mệnh của Con Người”.

1) “Gia Sản”

Lịch sử tiến đến cuối thiên niên kỷ thứ hai sẽ là năm của một cuộc đại hỷ kỷ niệm. Thời điểm này sẽ nhắc nhở chúng ta một cách đặc biệt về sự thật chính yếu của đức tin được Thánh Gioan diễn tả ở đầu Phúc Âm của ngài: “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta”. Bằng hành động cứu chuộc này, lịch sử của loài người đã tiến đến tuyệt đỉnh của nó: “Qua Việc Nhập Thể, Thiên Chúa đã ban cho sự sống của nhân loại một chiều kích mà Ngài muốn con người phải theo ngay từ lúc nguyên khôi của họ”.

Từ tiền đề căn bản này, Đức Gioan Phaolô II muốn thực hiện các giáo huấn của Công Đồng Chung Vaticanô II (1962-1965), như thế là Ngài muốn tiếp tục công việc được Đức Gioan XXIII, Phaolô VI và Gioan Phaolô I thực hiện.

Trong “giai đoạn hậu công đồng khó khăn”, Đức Phaolô VI đã biết cách để chứng tỏ cho thế giới thấy được dung nhan đích thực của Giáo Hội và bảo trì dung nhan này khỏi những quá trớn của việc tự kiểm điểm bản thân. Nhờ Ngài, “Giáo Hội giờ đây hiệp nhất hơn trong mối hiệp thông phục vụ cũng như trong việc nhận thức về vấn đề tông đồ”.

Đức Gioan XXIII đã làm sáng tỏ nhu cầu cần phải hoạt động để tiến đến chỗ hiệp nhất tất cả mọi người Kitô hữu theo ý nguyện của chính Chúa Kitô trong lời Nguyện Cầu của Người ở Nhà Tiệc Ly: “’Lạy Cha… Con xin… cho họ được nên một’… Hoạt động đại kết thực sự nghĩa là cởi mở, là xích lại gần nhau, là sẵn sàng đối thoại, và cùng nhau tìm hiểu sự thật một cách trọn vẹn theo ý nghĩa phúc âm và Kitô giáo”. Tất cả những việc ấy cần phải thực hiện một cách kiên trì, khiêm nhượng và can đảm, song không loại trừ sự thật thần linh được Giáo Hội truyền dạy”.

2) “Mầu Nhiệm Cứu Chuộc”


Để đến gần với Chúa Cha, Giáo Hội cần phải tiến tới với Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc thế giới, vì không có ơn cứu độ nơi một ai khác ngoài Người. Cây Thánh Giá trên đồi Canvê tỏ hiện cho thấy mối tình thân phụ vĩnh hằng của Thiên Chúa, Đấng qua Chúa Kitô lại tiến đến với nhân loại, khi mạc khải cho chúng ta biết tình yêu và lòng xót thương của Ngài.

Con người không thể sống mà lại thiếu vắng yêu thương, bằng không họ sẽ không còn hiểu được bản thân mình nữa, đời sống của họ mất hết ý nghĩa. Vì thế, “Đức Kitô Cứu Chuộc ‘đã hoàn toàn cho con người biết về họ’”. Giáo Hội biết rằng “Việc Cứu Chuộc… cuối cùng đã phục hồi cho con người phẩm vị của họ và trả lại ý nghĩa cho đời sống của họ trên thế gian này”. Nhiệm vụ chính yếu của Giáo Hội, nhất là trong thời đại của chúng ta đây, đó là “tỏ Chúa Kitô ra cho thế giới, bằng cách giúp cho con người tìm thấy bản thân họ nơi Chúa Kitô”. Sứ vụ tông đồ này dường như gặp chống đối ở thời đại của chúng ta hơn là trong quá khứ; tuy nhiên, nó lại là việc cần hơn bao giờ hết.

3) “Con Người được cứu chuộc và Tình Trạng của họ trong Thế Giới Tân Tiến”

Bước theo Chúa Kitô, Giáo Hội không thể nào vô cảm thức trước những gì đưa tới thiện ích thực sự cho con người, cả về phương diện tạm thế lẫn vĩnh hằng, hay trước những gì đe dọa họ. Mối quan tâm của Giáo Hội đó là sự sống trên thế giới cần phải xứng hợp với phẩm vị con người là mối quan tâm của Chúa Kitô, của chính Vị Mục Tử Nhân Lành.

Con người ngày nay dường như bị đe dọa bởi thành quả của việc họ làm ra và nghĩ ra. Họ sống trong nơm nớp lo sợ những gì họ sản xuất ra có thể trở thành phương tiện làm họ bị tự diệt. Lý do của nó là việc phát triển về kỹ thuật và về văn minh “đòi phải có một thứ phát triển tương xứng về luân lý và đạo đức nữa. Hiện nay, vấn đề phát triển về luân lý và đạo hạnh tiếc thay dường như bao giờ cũng bị bỏ lại sau lưng”.

Thật vậy, “tình trạng của con người trong thế giới tân tiến ngày nay thực sự dường như còn xa vời đối với những đòi hỏi khách quan về phương diện luân lý, đối với những đòi hỏi của công lý, thậm chí với đức bác ái xã hội”. Cần phải nhớ đến ý nghĩa của việc làm chủ Trái Đất Đấng Hóa Công đã ủy thác cho con người như việc làm của họ. Việc làm chủ này là ở chỗ đạo lý ưu tiên hơn kỹ thuật, con người hơn sự vật, tinh thần hơn vật chất”.

Con người không thể loại trừ vị trí của mình trên thế giới, họ không thể trở thành nô lệ cho các sự vật, cho các thể chế kinh tế, cho việc sản xuất, cho những sản vật họ làm ra. Một thứ văn minh thuần vật chất sẽ tiến đến chỗ trở thành nô lệ.

Bởi vậy, tâm thức hương thụ ngày nay đang thịnh hành ở các quốc gia phát triển đã dẫn đến việc thiết lập những cấu trúc kinh tế và chính trị làm đổ nát những nguồn chất liệu ở một mức độ gia tốc, đe dọa đến môi sinh. Đồng thời những cấu trúc ấy cũng làm lan rộng những miền đất khốn khổ.

Để thay đổi tình trạng này, cần phải có những giải quyết mạnh mẽ và mới mẻ thích hợp với phẩm vị của con người. Nguyên tắc cần phải hướng dẫn việc tìm cầu những phương pháp và những cơ cấu hiệu nghiệm đó là tình đoàn kết, nhất là nơi lãnh vực của một thứ tái phân phối những thứ phong phú dồi dào cho rộng rãi hơn và cấp thời hơn. Thế nhưng, việc biến đổi bất khả châm chước này về những cấu trúc kinh tế sẽ không dễ dàng thực hiện nếu “thiếu vắng việc hoán cải thực sự của trí khôn, lòng muốn và tâm hồn”.

Một lãnh vực khác rất gần gũi với sứ vụ của Giáo Hội trên thế giới đó là việc bênh vực nhân quyền. Hòa bình được bảo trì nhờ ở việc tỏ ra tôn trọng những quyền lợi này; chiến tranh xẩy ra khi chúng bị vi phạm.

Ví lý do ấy, Giáo Hội cùng với tất cả mọi con người thiện chí cần phải tiếp tục đặt vấn đề là Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền có được tôn trọng chưa. Những thứ quyền lợi về quyền lực, những quyền phát xuất từ nhiệm vụ chính yếu của nó, là để coi chứng công ích của xã hội, chỉ có thể chấp nhận được căn cứ vào việc tôn trọng nhân quyền mà thôi.

Trong số những quyền ấy, nổi bật nhất là quyền tự do tôn giáo và tự do lương tâm. Không tôn trọng những quyền này là vi phạm đến “một thứ bất công thực sự liên quan tới những gì là… nhân bản đích thực”. Tôn trọng những quyền lợi ấy là một dầu hiệu cần thiết cho thấy mức tiến bộ thực sự của con người ở bất cứ xã hội nào.

4) “Sứ Vụ của Giáo Hội và Định Mệnh của Con Người”

Sự sống đời đời, được Chúa Cha ban nơi Chúa Giêsu Kitô, “là mức độ thành trọn cuối cùng của ơn gọi làm người”. Giáo Hội, khi sống thực tại này của con người, “cần phải chú trọng và tập trung vào Mầu Nhiệm ấy, tìm thấy nơi nó ánh sáng và sức mạnh bất khả thiếu cho sứ vụ của Giáo Hội”.

Theo chiều hướng giáo huấn của Công Đồng Chung Vaticanô II, Giáo Hội hiện hữu như là một thực thể mang trách nhiệm truyền đạt một cách xác đáng sự thật thần linh. Bởi thế, Giáo Hội cần phải trung thành gắn bó với việc truyền đạt này khi Giáo Hội tuyên xưng và giảng dạy đức tin. Trách nhiệm truyền đạt sự thật này còn có nghĩa là “yêu mến nó và tìm cách hiểu được ý nghĩa đích xác nhất của nó, để mang nó đến gần chúng ta cũng như đến với những người khác hơn nữa”. Trong lãnh vực này, không thể thiếu việc hợp tác chặt chẽ của các thần học gia đối với Huấn Quyền. Là những bầy tôi của sự thật, “các thần học gia… không bao giờ được đánh mất ý nghĩa của việc họ phục vụ Giáo Hội”.

Tất cả mọi người đều phải chung trách nhiệm với Giáo Hội trong việc phục vụ sự thật thần linh. Các thần học gia và “tất cả mọi người hiểu biết trong Giáo Hội ngày nay được kêu gọi liên kết đức tin với kiến thức và sự khôn ngoan, để giúp cho chúng hòa hợp với nhau”. Các chuyên viên về các ngành khác nhau, với tư cách là phần tử thuộc Dân Chúa, đều tham dự vào sứ vụ ngôn sứ của Chúa Kitô trong việc phục vụ sự thật thần linh.

Đời sống bí tích của Giáo Hội cũng như của mỗi một Kitô hữu tiến đến chỗ trọn vẹn nơi Thánh Thể. Nơi bí tích này, theo ý muốn của Chúa Kitô, mầu nhiệm hiến tế trên Thánh Giá, mầu nhiệm mà Người đã chiếm hữu cho chúng ta từ Chúa Cha các tặng ân Thánh Thần và sự sống đời đời khi phục sinh, được liên tục canh tân mới mẻ.

Trong việc cử hành Bí Tích Mình Máu Chúa Kitô, cần phải tôn trọng “tính cách hoàn toàn cao cả của mầu nhiệm thần linh… một mầu nhiệm Chúa Kitô thực sự hiện diện và được nhận lãnh, làm cho linh hồn tràn đầy ân sủng”. Tất cả mọi người trong Giáo Hội, nhất là các vị giám mục và linh mục, cần phải coi chừng để làm cho bí tích này trở thành tâm điểm của đời sống Dân Chúa”.

Bí Tích Thánh Thể liên kết chặt chẽ với Bí Tích Thống Hối: “Không liên lỉ cố gắng lập lại hơn nữa việc hoán cải thì việc tham phần lãnh nhận Thánh Thể sẽ thiếu mất hiệu năng cứu chuộc của bí tích này”. Cả hai bí tích ấy liên kết mật thiết với cuộc sống theo tinh thần Phúc Âm. Giáo Hội, khi tiếp tục sửa soạn cho sự sống mới của Chúa, phải là một Giáo Hội của Thánh Thể và của Thống Hối. “Chỉ khi nào thấy được khía cạnh thiêng liêng này nơi đời sống và hoạt động của mình, Giáo Hộ mới được coi như là Giáo Hội của sứ vụ thần linh”.

Ơn gọi Kitô hữu là ở chỗ “là một người tôi tớ” và “là một hoàng vương”. Theo chiều hướng của các giáo huấn Chúa Kitô dạy, chỉ khi nào “trở thành một người tôi tớ” con người mới thực sự “là một hoàng vương”. Cũng thế, “’trở thành một người tôi tớ” đòi phải thật sự trưởng thành về phương diện thiêng liêng, một sự trưởng thành cần phải được thực sự diễn tả bằng việc ‘là một hoàng vương’”.

Công việc vương giả này nằm ở trên vai mỗi một người chúng ta, theo gương của Chúa Kitô, “nhiệm vụ đòi hỏi chính bản thân Người chính là những gì chúng ta được kêu gọi thực hiện”. Trung thành với ơn gọi của mình là một vấn đề đặc biệt quan trọng liên quan tới những công việc cần phải dấn thân hơn nữa và cũng là những gì ảnh hưởng hơn nữa trên đời sống tha nhân của chúng ta cũng như của xã hội.

Hợp tác với ân sủng Chúa Kitô đã chiếm hữu cho chúng ta, “chúng ta có thể đạt đến chỗ ‘là những hoàng vương’, tức là chúng ta có thể sản sinh ra một nhân tính trưởng thành nơi mỗi một người chúng ta”. Điều này có nghĩa là hoàn toàn được tự do như Đấng Hóa Công đã ban tự do cho chúng ta: “Chúa Kitô đã dạy chúng ta rằng việc sử dụng tự do tốt nhất đó là đức bác ái, một đức bác ái được thể hiện cụ thể nơi việc hiến thân và phục vụ”.

Giáo Hội thực sự phục vụ nhân loại khi Giáo Hội say mến canh chừng sự thật này, và khi Giáo Hội truyền đạt sứ thật ấy và cống hiến cho dự thật ấy một hình thức cụ thể nơi đời sống con người. Đó là khẳng định rằng “con người là và bao giờ cũng trở nên ‘đường lối’ cho sinh hoạt thường nhật của Giáo Hội”.

Đối diện với những việc làm trước mắt của mình cùng với những khó khăn có thể chạm trán, Giáo Hội rất cần phải cầu nguyện. “Chỉ có cầu nguyện mới có thể ngăn ngừa tất cả mọi công việc tiến hành cao cả cũng như những khó khăn ấy khỏi trở thành căn nguyên gây ra khủng hoảng, mà trái lại còn làm cho chúng trở thành cơ hội và thực sự trở thành nền tảng cho những đạt thành vững vàng hơn trên con đường Dân Chúa tiến về Đất Hứa”.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tái liệu của VIS phổ biến ngày 9/3/2004
 

Phân Tích

1-       Tại sao Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô viết bức thông điệp "Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại"?  

            Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II viết bức thông điệp lấy nhan đề "Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại" để mở màn cho giáo triều của ngài là vì 2 lý do sau đây:

            - Vì thời điểm giáo triều của ngài cũng như của Giáo Hội đang ở vào một mùa vọng mới.

            - Vì vai trò của chính "Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại" trong mùa vọng mới của Giáo Hội. 

Lý do thứ nhất: Vì thời điểm giáo triều của ngài cũng như của Giáo Hội đang ở vào một mùa vọng mới.

            "Thật vậy, thời điểm này, một thời điểm mà theo ý định kín nhiệm của Thiên Chúa, Ngài đã trao cho Tôi, sau vị tiền nhiệm Gioan-Phaolô I yếu mến của Tôi, việc phục vụ hoàn vũ liên quan đến Toà của Thánh Phêrô ở Rôma, thì đã rất gần đến năm 2000 rồi. Vào lúc này đây khó có thể nói được vào năm ấy bộï mặt lịch sử con người sẽ mang dấu vết gì, hay nó sẽ đem lại những gì cho mỗi dân tộc, mỗi đất nước, mỗi xứ sở và mỗi lục địa, cho dù đã có những nỗ lực được thực hiện trong việc tiên đoán trước một số những biến cố. Đối với Giáo Hội là Dân của Thiên Chúa, một dân đã lan rộng, dù không đồng đều, đến những tận điểm xa nhất trên trái đất này, thì năm ấy sẽ là một năm Đại Hỷ (the year of a great Jubilee, cũng có thể dịch là một Đại Năm Thánh). Chúng ta đang tiến đến ngày đó rồi đây, một ngày mà, không đụng chạm gì đến tất cả những sửa chữa theo ngày tháng chính xác của nó, sẽ gợi lại cho chúng ta và làm sống lại nơi chúng ta một cách đặc biệt nhận thức của chúng ta về một chân lý chính yếu của đức tin được Thánh Gioan diễn tả ở đầu Phúc Âm của ngài: 'Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta' (1:14), và ở một chỗ khác: 'Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến ban Con duy nhất của mình, để ai tin vào Con sẽ không phải chết nhưng được sự sống đòi đời' (3:16)" (đoạn 1)

            "Chúng ta, một cách nào đó, cũng đang ở trong một Mùa Vọng mới, một mùa đợi trông: 'Xưa kia, bằng nhiều thể nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta qua các vị tiên tri; nhưng trong những ngày sau hết này Ngài đã nói với chúng ta qua Người Con...' (Heb 1:1-2), Người Con đó là Lời của Ngài, Đấng làm người, được sinh ra bởi Trinh Nữ Maria..." (đoạn 1). 

Lý do thứ hai: Vì vai trò của chính "Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại" trong mùa vọng mới của Giáo Hội

            "Hành động cứu chuộc này đã đánh dấu một điểm son nơi lịch sử loài người trong dự án yêu thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đi vào lịch sử nhân loại, và như là một con người, Ngài đã trở nên một người đi làm lịch sử này (an actor in that history), một người trong muôn ngàn triệu triệu con người, song đồng thời cũng Chuyên Biệt (Unique)! Qua việc Nhập Thể, Thiên Chúa đã ban cho sự sống con người một chiều kích mà Ngài đã định ban cho con người ngay từ ban đầu... (đoạn 1)

            "Điều chúng ta phải làm là gì đây, để mùa vọng mới này của Giáo Hội có dính dáng đến việc tiến đến hồi kết thúc của đệ nhị thiên niên này, có thể làm cho chúng ta gần hơn với Đấng mà Thánh Kinh gọi là "Cha Hằng Sống" Pater futuri saeculi (Is 9:6)? Đây là một câu hỏi chính yếu mà vị Tân Giáo Hoàng này phải tự đặt ra, theo tinh thần đức tin trong việc tuân hành chấp nhận tiếng gọi để đáp lại lệnh truyền mà Chúa Kitô đã mấy lần ngỏ với thánh Phêrô: 'Hãy chăn các chiên của Thày' (Jn 21:15), tức: Hãy làm chủ chăn đàn chiên của Thày, cũng như: "Hãy làm cho các anh em của con vững mạnh khi con phục hồi' (Lk 22:32)

            "Đối với câu hỏi này, qúi huynh và các con nam nữ thân mến, cần phải có một giải đáp thực sự và xác đáng. Câu giải đáp của chúng ta phải là thế này: Tinh thần của chúng ta phải hướng về một chiều, một chiều duy nhất cho lý trí, ý muốn và tâm can của chúng ta, đó là hướng về Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc của chúng ta, hướng về Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc của nhân loại. Chúng ta muốn hướng về Người, vì không có ơn cứu rỗi nơi một ai khác ngoài Người, Con Thiên Chúa, bằng cách lập lại lời của thánh Phêrô: 'Lạy Chúa, chúng con còn biết theo ai? Chúa có những lời sự sống đời đời' (Jn 6:68; x.Acts 4:8-12)" (đoạn 7).

2-       Theo bức thông điệp thì "Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại" là ai?         

            Giáo Hội phải hướng về "Đấng Cứu Tinh Nhân Loại" trong thời điểm một mùa vọng mới của Giáo Hội, là vì, trong dự án cứu rỗi của Thiên Chúa và theo công cuộc cứu rỗi của Thiên Chúa, "Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại là Chúa Giêsu Kitô, trung tâm điểm của vũ trụ và của lịch sử" (đoạn 1, đây là câu mở đầu cho cả bức thông điệp) 


"Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại" là Chúa Giêsu Kitô, trung tâm điểm của vũ trụ:

            "Đấng Cứu Chuộc của thế gian! Nơi Người tỏ hiện, bằng một đường lối mới mẻ và tuyệt vời hơn, chân lý nền tảng liên quan đến việc tạo dựng mà Sách Khởi Nguyên chứng tỏ qua những lần lập đi lập lại: 'Thiên Chúa thấy nó tốt lành' (đoạn 1). Sự tốt lành bắt nguồn nơi Đức Khôn Ngoan và Tình Yêu Thương. Nơi Chúa Giêsu Kitô, thế giới hữu hình mà Thiên Chúa dựng nên cho con người (x.Gen 1:26-30), một thế giới mà khi tội lỗi đột nhập 'đã lụy thuộc vào sự hư hoại' (Rm 8:20, x.Rm 8:19-22), phục hồi được mối liên hệ với nguồn mạch thần linh nguyên thủy của Đức Khôn Ngoan và của Tình Yêu Thương...

            "Khi phân tách một cách sâu xa 'cái thế giới tân tiến này', Công Đồng Chung Vaticanô II đã tiến đến một điểm quan trọng nhất của thế giới hữu hình, đó là con người, bằng cách, như Chúa Kitô, tiến sâu vào ý thức con người và bằng cách chạm đến mầu nhiệm nội tại của con người, cái mà ngôn ngữ thánh kinh cũng như không phải thánh kinh đã diễn tả bằng chữ 'trái tim'. Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc thế gian, là Đấng đã thấu nhập vào mầu nhiệm của con người một cách đặc thù và dứt khoát, cũng như Người đã đi vào 'tâm can' của họ. Bởi thế, Công Đồng Vaticanô II đã có lý khi dạy rằng: 'Sự thật đó là chỉ có ở nơi mầu nhiệm của Lời Nhập Thể mà mầu nhiệm của con người mới được sáng tỏ. Vì Adong, con người đầu tiên, kiểu mẫu của Đấng phải đến (Rm 5:14) là Chúa Kitô. Chúa Kitô, một tân Adong, trong việc mạc khải mầu nhiệm về Cha và về tình yêu của Cha, đã hoàn toàn tỏ cho con người biết về chính con người họ và làm sáng tỏ ơn gọi cao cả nhất của con người'. Công Đồng tiếp: 'Đấng là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (Col 1:15), tự Mình là một con người hoàn hảo, Đấng đã phục hồi nơi giòng dõi Adong cái tương tự giống như Thiên Chúa đã từng bị nguyên tội làm biến dạng đi. Bản tính loài người, nhờ được mặc lấy chứ không bị mất đi trong Người, đã được nâng lên nơi chúng ta tới một phẩm vị khôn sánh. Vì, nhờ Việc Nhập Thể của Người, Người, là Con Thiên Chúa, một cách nào đó, đã hiệp nhất mình với mỗi một người. Người đã làm việc với đôi tay nhân loại, Người đã suy nghĩ với trí khôn nhân loại. Người đã tác động với ý muốn nhân loại, và Người đã yêu thương với trái tim nhân loại. Được sinh hạ bởi Trinh Nữ Maria, Người thực sự là một ngưòi trong chúng ta, giống như chúng ta trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi' (Gaudium et Spes, đoạn 22). Người là Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại". (đoạn 8). 

Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại là Chúa Giêsu Kitô, trung tâm điểm của lịch sử

          "Chúng ta, một cách nào đó, cũng đang ở trong một Mùa Vọng mới, một mùa đợi trông: 'Xưa kia, bằng nhiều thể nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta qua các vị tiên tri; nhưng trong những ngày sau hết này Ngài đã nói với chúng ta qua Người Con...' (Heb 1:1-2), Người Con đó là Lời của Ngài, Đấng làm người, được sinh ra bởi Trinh Nữ Maria. Hành động cứu chuộc này đã đánh dấu một điểm son nơi lịch sử loài người trong dự án yêu thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đi vào lịch sử nhân loại, và như là một con người, Ngài đã trở nên một người đi làm lịch sử này (an actor in that history), một người trong muôn ngàn triệu triệu con người, song đồng thời cũng Chuyên Biệt (Unique)! Qua việc Nhập Thể, Thiên Chúa đã ban cho sự sống con người một chiều kích mà Ngài đã định ban cho con người ngay từ ban đầu: Ngài đã ban cho họ chiều kích này một cách dứt khoát - bằng một đường lối dành riêng cho một mình Ngài mà thôi, hợp với tình yêu và lòng thương vĩnh hằng của Ngài, hợp với niềm tự do của Thiên Chúa - và Ngài đã cũng ban nó bằng một lòng bao dung để chúng ta, khi xét đến nguyên tội và suốt giòng lịch sử tội lỗi của nhân loại, cũng như xét đến những lầm lẫn của trí khôn con người, ý muốn và con tim của mình, có thể bồi hồi lập lại những lời của phụng vụ thánh: 'Ôi lỗi lầm diễm phúc (happy fault)... đã làm cho chúng ta được một Đấng Cứu Chuộc cao cả như vậy' (Tụng ca Lễ Vọng Phục Sinh)..." (đoạn 1).

            "Thập giá trên đồi Canvê mà Chúa Giêsu Kitô - một Con Người, Con của Trinh Nữ Maria, được nghĩ là con của Giuse Nazarét - 'để lại' cho thế giới này, cũng là một biểu hiện mới mẻ về tình phụ tử đời đời của Thiên Chúa, Đấng mà trong Người, một lần nữa, đến gần nhân loại, gần với mỗi một con người, khi ban cho Người 'Thần chân lý' (Jn16:13) ba lần thánh.

            "Việc mạc khải này của Cha và việc tuôn đổ Thánh Linh để đóng một niêm ấn không phai nhòa trên mầu nhiệm cứu chuộc đã nói lên ý nghĩa của cây thập giá và cái chết của Đức Kitô. Vị Thiên Chúa của việc tạo dựng được mạc khải như là một Vị Thiên Chúa của việc cứu chuộc, như Vị Thiên Chúa 'trung tín với chính mình' (1Thes 5:24), cũng như trung tín với tình yêu thương của Ngài đối với nhân loại và thế gian, một tình yêu Ngài đã mạc khải vào ngày tạo dựng. Tình yêu của Ngài là một tình yêu không rút lui trước bất cứ một cái gì đòi Ngài phải dùng đến phép công thẳng. Bởi thế, 'vì chúng ta, (Thiên Chúa) đã làm cho Người (Con) là Đấng không biết đến tội lỗi thành tội lỗi' (2Cor 5:21; x.Gal 3:13). Nếu Người 'thành tội lỗi', Người là Đấng không bao giờ có một tội lỗi nào, thì tỏ ra rằng tình yêu luôn luôn cao trọng hơn tất cả tạo vật, một tình yêu là chính Mình Người, vì 'Thiên Chúa là tình yêu' (Jn 4:8,16). Trên tất cả mọi sự, tình yêu vĩ đại hơn cả tội lỗi, hơn cả yếu đuối, hơn cả 'tình trạng hư hoại của tạo vật' (Rm 8:20); nó mạnh hơn cả sự chết; nó là một tình yêu luôn luôn sẵn sàng để nâng cao và tha thứ, luôn luôn sẵn sàng để đi gặp người con hoang đàng (x.Lk 15:11-32), luôn luôn mong đợi 'cuộc thể hiện của con cái Thiên Chúa' (Rm 8:18) là thành phần được kêu gọi 'đến vinh quang sẽ được tỏ hiện' (Thánh Tomas tiến sĩ). Việc mạc khải của tình yêu này cũng được diễn tả như mạc khải của lòng thương xót; và trong lịch sử của con người, mạc khải của tình yêu và lòng thương xót này đã mặc một hình thức và mang một danh hiệu: đó là Giêsu Kitô" (đoạn 9)

            "Con người không thể nào sống mà không yêu thương. Họ mãi là một hữu thể không hiểu được mình, đời sống của họ vô nghĩa, nếu tình yêu không tỏ hiện cho họ thấy, nếu họ không gặp gỡ tình yêu, nếu họ không cảm nghiệm được nó và làm cho nó thành của mình, nếu họ không mật thiết liên kết với nó. Đó là, như đã nói đến, lý do tại sao Đức Kitô Đấng Cứu Chuộc 'hoàn toàn tỏ cho con người biết về chính con người họ'. Nếu chúng ta cần diễn tả, thì đây là chiều kích nhân loại của mầu nhiệm của việc cứu chuộc. Trong chiều kích này, con người, một lần nữa, tìm được sự cao cả, phẩm vị và giá trị thuộc về nhân tính của họ. Nơi mầu nhiệm của việc cứu chuộc, con người được 'thể hiện' một cách mới mẻ, và, một cách nào đó, được tạo dựng một cách mới mẻ. Con người được tạo dựng một cách mới mẻ! 'Không còn Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ; vì anh em tất cả là một trong Đức Giêsu Kitô' (Gal 3:28). Con người muốn hiểu mình hoàn toàn - không chỉ hợp với những tiêu chuẩn và mức độ trực tiếp, bán phần, thường nông cạn, hay ảo tưởng về hữu thể mình - họ phải đến gần Chúa Kitô, với nỗi khắc khoải và lo âu của họ, cả với nỗi yếu đuối và tội lỗi của họ, với sự sống và cái chết của họ. Như thế, họ phải vào trong Người với tất cả cái tôi riêng của họ, họ phải 'thích hợp' và đồng hóa với toàn thể thực tại của mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc để tìm thấy chính mình. Nếu tiến trình sâu xa này xẩy ra nơi họ, thì họ mới sinh hoa trái, chẳng những nơi việc tôn thờ Thiên Chúa, mà còn nơi cả sự bỡ ngỡ lạ lùng về mình nữa. Con người qúi hóa là chừng nào trước mắt của Hóa Công, khi họ 'được một Đấng Cứu Chuộc cao cả như vậy' (tụng ca Lễ Vọng Phục Sinh), và khi Thiên Chúa 'đã ban Con duy nhất của mình' để con người 'không phải chết nhưng được sự sống đời đời' (Jn 3:16).

            "Trong thực tế, danh hiệu làm chúng ta bỡ ngỡ lạ lùng ở nơi giá trị và phẩm vị của con người đó là Phúc Âm, nghĩa là: Tin Mừng. Nó cũng được gọi là Kitô giáo. Sự bỡ ngỡ lạ lùng này, còn là một niềm xác tín và chân thực - nơi những gốc rễ sâu xa nhất của nó, nó cũng là sự chân thực của đức tin, song trong một đường lối kín đáo và huyền nhiệm, nó làm sống động mọi phương diện nhân bản đích thực - gắn liền với Chúa Kitô. Nó cũng sửa lại vị thế của Chúa Kitô - tức quyền lợi công dân riêng biệt của Người - trong lịch sử của con người (man) và của nhân loại (mankind)..." (đoạn 10).

3-       Tại sao thế giới tân tiến ngày nay cần đến "Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại"?         

            "Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại là trung tâm điểm của tạo vật và của lịch sử" như vậy, nên thế giới tân tiến ngày nay cần đến Người hơn bao giờ hết, vì trong mùa vọng mới của Giáo Hội này,

- Thế giới tân tiến đang sống trong lo âu sợ hãi bởi cái họ làm ra;

- Thế giới tân tiến đang phàt triển trong một mối đe dọa bị mất đi chính mình bằng nhiều  hình thức;

- Thế giới tân tiến đang vi phạm đến quyền lợi của con người được chính mình phác họa ra. 

Thế giới tân tiến đang sống trong lo âu sợ hãi bởi cái họ làm ra

"Con người ngày nay hình như chưa bao giờ bị đe dọa bởi cái họ làm ra như vậy, nghĩa là từ thành qủa của việc do bàn tay họ làm, và còn hơn thế nữa, của công việc do lý trí con người nghĩ ra cũng như của những khuynh hướng do ý con người muốn. Tất cả những gì do hoạt động đa diện này của con người sản xuất ra, thường bằng một đường lối không thể nào thấy trước được, rất là nhanh chóng, chẳng những nó gây nên 'sự tách biệt' (alienation), ở chỗ nó thường lấy đi khỏi con người là tác nhân sản xuất ra chúng, mà hơn thế nữa, nó còn trở mặt phản lại chính con người, ít là một phần nào đó, qua những hậu quả gián tiếp nó tác dụng khi trả về cho họ. Nó được và có thể được nhắm thẳng vào con người. Điều này có thể tạo nên một màn thảm kịch chính yếu cho việc hiện hữu con người ngày nay trong một chiều kích rộng nhất và phổ quát của nó. Bởi thế, con người đang sống trong nỗi sợ hãi gia tăng. Họ sợ cái họ sản xuất ra - dĩ nhiên không phải là tất cả những cái ấy, hay hầu hết những thứ ấy, nhưng là một phần của nó, đích xác hơn là cái phần chứa đựng một thừa hưởng đặc biệt bởi tài năng và sự sáng tạo của họ - có thể phản lại chính họ tận gốc rễ; họ sợ rằng nó có thể trở thành phương tiện và dụng cụ cho một cuộc tự diệt không thể nào tưởng tượng nổi, so với tất cả những hủy hoại dữ dội và những hủy diệt bất ngờ trong lịch sử mà chúng ta biết đến thì chỉ là một bóng mờ. Điều này gợi lên một vấn đề là: Tại sao quyền năng được ban cho con người từ ban đầu để họ làm chủ trái đất (cf. Gen 1:28) lại quay ra chống lại họ, gây ra một tình trạng bất an không sao hiểu được, một nỗi sợ hãi ý thức hay vô thức, cũng như một mối nguy hiểm, mà trong những cách thức khác nhau, được truyền lan đến cả gia đình nhân loại ngày nay, và đang thể hiện dưới những phương diện khác nhau?...

            "Việc phát triển về kỹ thuật và về văn minh hiện đại, được đánh dấu bằng tình trạng dẫn đầu của kỹ thuật, đòi phải có một phát triển cân xứng về luân lý và đạo đức. Đối với ngày nay thì việc phát triển về luân lý và đạo đức này, bất hạnh thay, luôn luôn bị quên sót..." (đoạn 15).

Thế giới tân tiến đang phát triển trong một mối đe dọa bị mất đi chính mình bằng nhiều hình thức

"Bởi thế, nếu trong thời điểm của chúng ta, thời điểm đang tiến đến tận cùng đệ nhị thiên niên của kỷ nguyên Kitô giáo, tỏ ra mình là một thời điểm phát triển lớn lao, thì nó cũng được thấy như là một thời điểm của mối đe dọa đối với con người bằng nhiều hình thức... Tình trạng của con người trong thế giới tân tiến này thật sự xa rời khỏi những đòi hỏi khách quan của trật tự luân lý, khỏi những đòi hỏi của công lý, và còn hơn thế nữa, của tình yêu thương trong xã hội... Ý nghĩa chính yếu của 'vương chức' (kingship) và 'chủ quyền' (dominion) của con người trên thế giới hữu hình mà Chính Tạo Hóa trao cho con người như công việc của họ, hệ tại việc đạo đức ưu tiên hơn kỹ thuật, con người chính yếu hơn sự vật, và tinh thần trọng hơn vật chất.

            "Đây là lý do tại sao tất cả những giai đoạn của việc phát triển hiện nay phải được cẩn thận theo dõi. Mỗi một giai đoạn của việc phát triển đó, có thể nói, được rọi chiếu (x-rayed) từ quan điểm này (quan điểm vừa được nhắc đến ở câu cuối cùng đoạn trên đây). Vấn đề là con người thăng tiến không phải chỉ là việc tăng bội những sự vật mà người ta có thể hưởng dụng. Nó là một vấn đề - như một triết gia hiện đại đã nói cũng như Công Đồng đã phát biểu - không phải 'có hơn' (having more) mà 'là hơn' (being more) (Gaudium et Spes, đoạn 35). Thật vậy, đã có thể thấy được một cơn nguy biến ở chỗ, trong khi việc con người làm chủ trên thế giới sự vật đang tạo nên những phát triển khổng lồ, thì họ liều mất đi những cái cốt yếu làm nên chủ quyền của mình, và bằng nhiều cách thức khác nhau, để cho nhân tính của mình lụy thuộc vào thế gian, rồi chính mình cũng trở nên một vật làm tôi phục vụ cho sự lạm dụng dưới nhiều hình thức - sự lạm dụng này thường không trực tiếp thấy được - qua toàn thể cơ cấu của cuộc sống chung, qua hệ thống sản xuất và qua áp lực từ phương tiện truyền thông xã hội. Con người không thể nào vùi dập bản thân mình hay vị trí của mình trong cái thế giới hữu hình là một thế giới thuộc về họ; họ không thể nào trở nên nô lệ cho sự vật, nô lệ cho những cơ cấu kinh tế, nô lệ cho việc sản xuất, nô lệ cho những sản phẩm riêng của mình" (đoạn 16). 

Thế giới tân tiến đang vi phạm đến quyền lợi của con người được chính mình phác họa ra

"Thế kỷ này, cho đến nay, vẫn là một thế kỷ của những hủy hoại lớn lao đối với con người, của những tàn phá vĩ đại, chẳng những về vật chất mà còn cả về luân lý, thực sự là thế, có lẽ trên hết là về mặt luân lý. Đồng ý là, về phương diện này, việc so sánh thời đại này hay thế kỷ này với thời đại khác hay thế kỷ khác không phải là một việc dễ dàng, vì điều này còn lệ thuộc vào những tiêu chuẩn lịch sử. Tuy nhiên, dù không mang ra so sánh chăng nữa, người ta cũng không thể nào không nhận thấy rằng thế kỷ này, cho tới nay, vẫn là một thế kỷ mà người ta đã gây ra cho nhau nhiều bất công và khổ đau. Diễn tiến này đã được dứt khoát chế ngự chưa? Dầu sao đi nữa, về điểm này, chúng ta cũng không thể nào không nhớ lại, bằng một nhận thức và hy vọng sâu xa hướng về tương lai, một nỗ lực sáng chói đã ban sức sống cho Tổ Chức Liên Hiệp Quốc, một nỗ lực dẫn đến việc định nghĩa và thiết lập những quyền lợi khách quan và bất khả xâm phạm của con người, mà những chính quyền là phần tử trong tổ chức này buộc nhau phải cương quyết tuân hành. Cuộc dấn thân nỗ lực này đã được hầu hết mọi chính quyền hiện nay chấp nhận và ưng chuẩn, sự kiện này tạo nên một bảo đảm về quyền lợi con người, làm nó thành một nguyên tắc hoạt động cho an sinh của con người trên khắp thế giới...

            "Bất chấp những luận cứ (premises) này, các quyền lợi con người vẫn đang bị vi phạm bằng nhiều hình thức, khi mà, trong thực hành, chúng ta thấy trước mắt có những trại tập trung, bạo lực, hành hạ, khủng bố, và kỳ thị dưới nhiều thể cách, thì sự kiện này phải là hậu quả của những chủ trương khác đang gặm nhấm và hầu như thường vô hiệu hóa những nền tảng nhân bản của những tổ chức và dự án hoạt động tân tiến này. Đối với hiện trạng như thế, cần phải có một trách nhiệm trong việc liên tục điều chỉnh những dự án hoạt động, dựa trên quan điểm về các quyền lợi khách quan và bất khả xâm phạm của con người.

"Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền gắn liền với việc thành lập Tổ Chức Liên Hiệp Quốc, chắc chắn theo mục tiêu của mình, không những bắt nguồn từ những kinh nghiệm kinh hoàng gây ra bởi Thế Chiến vừa qua, mà còn nhắm đến việc tạo nên một căn bản để liên tục điều chỉnh những dự án hoạt động, những tổ chức và những chế độ, được thực sự dựa trên quan điểm căn bản duy nhất này, tức là dựa trên tình trạng an sinh của con người - hay chúng ta cũng có thể nói là dựa trên con người trong cộng đồng - là cái mà, như một yếu tố chính yếu trong vấn đề công ích, tạo nên một tiêu chuẩn thực sự cho tất cả mọi dự án hoạt động, mọi tổ chức và mọi thể chế. Nếu xẩy ra ngược lại như thế, thì cuộc sống con người, ngay cả trong thời bình, phải gánh chịu những khổ đau khác nhau, rồi cùng với những đau khổ này, còn phát triển những hình thức khác nhau của việc thống trị (dominion), của chế độ độc tài chuyên chế (totalitarianism), của chế độ tân thực dân (neocolonialism) và của chế độ đế quốc (imperialism), làm nên một mối đe dọa cho cuộc sống hòa hợp với nhau giữa các quốc gia. Thật vậy, nó là một sự kiện quan trọng, được kinh nghiệm lịch sử xác nhận đi xác nhận lại, cho thấy là việc vi phạm đến quyền lợi của con người đi liền với việc vi phạm đến quyền lợi của các nước, nơi con người hiệp lại bằng những liên hệ có tổ chức như là một gia đình lớn hơn...

            "... Thật thế, những mối lo âu sợ hãi rất thường gợi lên cho chúng ta thấy rằng chúng ta còn xa vời với việc hiện thực hóa (nhân quyền) này, và, có những lúc, tinh thần của đời sống xã hội công cộng lại đi ngược một cách đau xót với 'chữ nghĩa' của nhân quyền. Tình trạng của những sự thể này đang đè nặng trên những tổ chức liên hệ sẽ phải chịu trách nhiệm đối với họ cũng như đối với lịch sử con người trong việc góp phần hình thành nó" (đoạn 17).

4-       Giáo Hội đối với "Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại" trong thế giới tân tiến ngày nay như thế nào?           

            Ở trong một thế giới tân tiến ngày nay đang sống trong lo âu sợ hãi bởi cái họ làm ra, một thế giới tân tiến đang phàt triển trong một mối đe dọa bị mất đi chính mình bằng nhiều hình thức, một thế giới tân tiến đang vi phạm đến quyền lợi của con người được chính mình phác họa ra, Giáo Hội cảm thấy mình:

            - Gắn bó với con người trong mầu nhiệm Cứu Chuộc,

            - Quan tâm đến ơn gọi trong Chúa Kitô của con người, và

            - Có trách nhiệm đối với sự thật. 

Giáo Hội gắn bó với con người trong Mầu Nhiệm Cứu Chuộc

            "Cái nhìn quan thiết ngắn gọn về tình trạng con người trong thế giới tân tiến này (như vừa được nhắc đến ở phần câu hỏi thứ 3 trên đây) hướng tư tưởng và tấm lòng của chúng ta về Chúa Giêsu Kitô, cũng như về mầu nhiệm Cứu Chuộc, một mầu nhiệm in ấn sắc nét chân lý và tình yêu cho vấn đề của con người. Nếu Chúa Kitô 'hiệp nhất với mỗi một người' (Gaudium et Spes, đoạn 22), thì Giáo Hội càng sống động sâu xa hơn bản tính và sứ mệnh của mình, bằng việc thấm nhập vào những chiều sâu của mầu nhiệm này, cũng như vào một thứ ngôn ngữ phổ quát phong phú của mình. Không phải là vô lý để thánh Tông Đồ nói về Thân Thể của Chúa Kitô là Giáo Hội (x.1Cor.6:15,11:3,12:12-13;Eph 1:22-23,2:15-16,4:4-6,5:30; Col.1:18,3:15; Rm.12:4-5; Gal.3:28). Nếu Nhiệm Thể của Chúa Kitô này là Dân của Thiên Chúa - như Công Đồng Chung Vaticanô II sau này nói đến trên căn bản của toàn thể truyền thống thánh kinh cũng như thánh truyền - thì có nghĩa là nơi nhiệm thể này, mỗi một người nhận được bên trong mình hơi thở sự sống từ Chúa Kitô. Như thế, trở lại với con người và những vấn đề thực sự của họ, với những hy vọng và khổ đau của họ, với những thành đạt và vong bại của họ, thì cả điều này nữa cũng làm cho Giáo Hội, là một thân thể (a body), một tổ chức (an organism), một đơn vị xã hội (social unit), nhận thấy mình có cùng một ảnh hưởng thiêng liêng, ánh sáng và sức mạnh của Thần Linh phát xuất từ Chúa Kitô tử giá và phục sinh, và cũng chính vì lý do này mà Giáo Hội sống sự sống của mình. Giáo Hội chỉ có một sự sống: đó là sự sống được Vị Hôn Phu và Chúa của mình ban cho. Thật thế, chính vì Chúa Kitô hiệp nhất Mình với Giáo Hội trong mầu nhiệm Cứu Chuộc, mà Giáo Hội phải vững mạnh hiệp nhất với mỗi một con người" (đoạn 18)

Giáo Hội quan tâm đến ơn gọi trong Chúa Kitô của con người

            "Cuộc hiệp nhất này của Chúa Kitô với con người tự nó là một mầu nhiệm. Từ mầu nhiệm này sinh ra "một con người mới", được kêu gọi để tham phần vào sự sống của Thiên Chúa (x.2Pt 1:4), được tân tạo trong Chúa Kitô cho mình đầy ân sủng và chân lý (x.Eph 2:10; Jn 1:14,16). Cuộc hiệp nhất của Chúa Kitô với con người là một quyền năng và là nguồn mạch của quyền năng, như Thánh Gioan đã nói rất gọn sáng trong phần nhập đề Phúc Âm của mình: '(Lời) đã ban quyền năng để trở nên con cái Thiên Chúa' (1:12). Con người được biến đổi nội tại bởi quyền năng này, một quyền năng như nguồn mạch của một sự sống mới không biến mất và qua đi song tồn tại đến sự sống muôn đời (Jn 4:14). Sự sống này là hoàn kết (the final fulfillment) cho ơn gọi của con người, một sự sống được Chúa Cha hứa ban và hiến cho mỗi một con người nơi Chúa Giêsu Kitô, Người Con hằng sống duy nhất của Ngài đã nhập thể và sinh bởi Trinh Nữ Maria 'khi thời gian nên trọn' (Gal 4:4). Bằng một đường lối nào đó, nó là cuộc hoàn trọn của 'định mệnh' mà Thiên Chúa  từ đời đời đã sửa soạn cho con người. 'Định mệnh thần linh' (the divine destiny) này đang tiến triển, bất chấp tất cả mọi khôn thấu (the enigmas), mọi nan giải (the unsolved riddles), mọi quanh co và rẽ lượn (the twists and turns) của 'định mệnh con người' (human destiny) trong thế giới thời gian. Thật thế, cho dù sự sống trong thời gian có phong phú đến đâu đi nữa, tất cả định mệnh này cũng không thể nào tránh được việc cần phải tiến đến ranh giới của sự chết cũng như đến mục tiêu hủy hoại của thân xác con người, mà vượt khỏi mục tiêu ấy chúng ta mới thấy được Chúa Kitô. 'Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta... sẽ không bao giờ phải chết' (Jn 11:25-26). Trong Chúa Giêsu Kitô, Đấng bị đóng đanh và được đặt nằm trong mồ để rồi phục sinh, 'hy vọng phục sinh của chúng ta được tỏ rạng... một hứa hẹn sáng sủa cho cuộc bất tử' (lễ cầu cho kẻ chết, kinh tiền tụng I), bằng một đường lối là, nhờ việc thân xác chết đi, con người có thể chia sẻ với toàn thể tạo vật hữu hình cái nhu yếu mà vật chất bị lụy thuộc. Chúng ta có ý định và đang cố gắng thấu triệt cho càng sâu xa hơn ngôn ngữ của sự thật mà Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại đã chiếu sáng lên trong câu 'Chính thần linh ban sự sống, chứ xác thịt chẳng lợi lộc gì' (Jn 6:63). Bất chấp tất cả những dấu hiệu bề ngoài, những lời này diễn tả một xác nhận cao cả nhất về con người - một xác nhận về thân xác được Thần Linh ban cho sự sống.

            "Giáo Hội sống những thực tại này; Giáo Hội sống nhờ sự thật về con người này, một sự thật làm cho họ vượt ra ngoài những ranh giới của tình trạng tạm bợ (temporariness), đồng thời, cũng giúp cho họ nghĩ về tất cả mọi sự được đặc biệt yêu mến và quyến luyến trong những chiều kích của tình trạng tạm bợ này, một tình trạng ảnh hưởng đến đời sống của con người cũng như đến sự sống tâm linh con người, một sự sống được tỏ ra không thôi khắc khoải theo những lời của Thánh Augustinô: 'Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho chính Chúa, nên lòng của chúng con khắc khoải cho đến khi đuợc nghỉ yên trong Chúa' (Tự Thú, I,1). Trong nỗi khắc khoải tự nhiên này, một nỗi khắc khoải làm rung động và thổn thức lên cái sâu xa nhất nơi con người: đó là việc tìm kiếm chân lý, là nhu cầu khôn nguôi đối với sự thiện, là niềm đói khát tự do, là nỗi hoài mong (nostalgia) sự mỹ, và là tiếng nói của lương tâm. Tìm kiếm con người đúng như họ là với 'con mắt cùa chính Chúa Kitô', Giáo Hội càng ngày càng nhận thức được rằng Giáo Hội là bảo quản viên (the guardian) của một kho tàng cao trọng mà Giáo Hội chẳng những không được làm cho nó thất thoát đi mà còn phải làm cho nó liên tục tăng phát lên nữa. Thật vậy, Chúa Giêsu phán: 'Ai không thu tích với Ta là kẻ phá tán' (Mt.12:30). Kho tàng nhân loại này được làm giầu bởi một mầu nhiệm khôn tả của việc làm con cái thần linh (x.Jn.1:12), cũng như bởi ơn được 'thừa nhận làm con cái' (Gal.4:5) nơi Người Con duy nhất của Thiên Chúa, nhờ Người Con này chúng ta kêu Thiên Chúa 'Abba, Cha ơi' (Gal 4:6; Rm.8:15), cũng là một động lực mạnh mẽ, trước hết, làm cho Giáo Hội tập trung lại và mang lại ý nghĩa cho tất cả mọi hoạt động của Giáo Hội. Nhờ động lực này, Giáo Hội hiệp nhất với Thần Linh của Chúa Kitô, đó là Thánh Linh được Đấng Cứu Chuộc hứa ban và tiếp tục thông ban, và cuộc hiện xuống của Ngài, như được tỏ ra trong Ngày Lễ Ngũ Tuần, kéo dài cho đến muôn đời. Những quyền năng của Thần Linh (Rm.15:13;1Cor.1:24), những tặng ân của Thần Linh (Ls.11:2-3;Acts 2:38) và những hoa trái của Thánh Linh (Gal 5:22-23) được mạc khải nơi con người là như thế. Giáo Hội ngày hôm nay đây, với một nhiệt tình mạnh mẽ hơn và với một chú tâm thánh hảo, như đang lập lại rằng: 'Xin hãy đến, lạy Chúa Thánh Linh!' Hãy đến! Hãy đến! 'Hãy chữa lành những vết thương đau của chúng con, hãy tái tạo sức mạnh cho chúng con; Xin hãy đổ sương sa của Ngài xuống trên cơn khô khan của chúng con; Xin Ngài hãy tẩy rửa hết những dấu vết lầm lỗi của chúng con; Xin Ngài hãy uốn lòng ý của chúng con cho khỏi bị cứng cỏi; Xin Ngài hãy làm tan đi nỗi đông lạnh và làm ấm lại niềm lạnh lẽo; Xin Ngài hãy dẫn dắt những bước đi cho khỏi sai đường lạc lối' (ca tiếp liên Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống).

            "Lời kêu cầu Thần Linh này, với chủ ý thực sự là xin cho được Thần Linh, là câu trả lời đối với tất cả mọi 'chủ trương duy vật' (materialisms) của thời buổi chúng ta. Những chủ trương duy vật này chính là cái đã sinh ra rất nhiều hình thức không thể nào làm con tim nhân loại được thỏa mãn. Lời kêu cầu này đang vang vọng nơi nhiều lãnh vực khác nhau, và như đang sinh hoa trái bằng nhiều cách thức khác nhau..." (đoạn 18). 

Giáo Hội có trách nhiệm đối với sự thật

            "Trong ánh sáng giáo huấn linh thánh của Công Đồng Chung Vaticanô II, trước mắt chúng ta, Giáo Hội hiện lên như là một chủ thể xã hội có trọng trách đối với sự thật thần linh. Với một lòng xúc động sâu xa khi chúng ta nghe thấy Chính Chúa Kitô nói: 'Lời các con nghe không phải của Thày mà là của Đấng đã sai Thày' (Jn.14:24). Trong lời xác nhận này của vị Thày chúng ta, chúng ta chẳng lẽ lại không nhận thấy hay sao, trách nhiệm của mình đối với sự thật được mạc khải, một sự thật là 'tài sản' của Chính Thiên Chúa, vì ngay cả 'Người Con duy nhất' là Đấng sống 'trong lòng Cha' (Jn.1:18), khi truyền đạt sự thật này như là một vị tiên tri và là một vị thày, Người cũng cảm thấy cần phải nhấn mạnh rằng Người đang tác hành hoàn toàn trung thực với nguồn mạch thần linh? Lòng trung thực như vậy phải là cái tạo nên phẩm chất đức tin của Giáo Hội, cả khi Giáo Hội truyền dạy đức tin cũng như lúc Giáo Hội tuyên xưng đức tin. Đức tin như là một nhân đức siêu nhiên đặc biệt được phú bẩm vào tâm linh con người, làm cho chúng ta trở nên những kẻ thông phần vào kiến thức của Thiên Chúa, như là một đáp ứng lại Lời mạc khải của Ngài. Bởi thế, khi Giáo Hội tuyên xưng và truyền dạy đức tin, Giáo Hội cần phải chặt chẽ gắn liền với sự thật thần linh (x. hiến chế Mạc Khải Thần Linh, đoạn 5,10,21), và phải chuyển đạt nó thành những thái độ sống động của 'một đức tuân phục hợp với lý trí' (hiến chế tín lý của Công Đồng Chung Vaticanô I về Đức Tin Công Giáo, Dei Filius, chương 3). Chính Chúa Kitô, vì quan tâm đến việc trung thực với sự thật thần linh này, đã hứa cho Giáo Hội được trợ giúp đặc biệt của Thần Linh chân lý, đã ban ơn vô ngộ (Hiến chế tín lý thứ nhất của Công Đồng Chung Vaticanô I, Pastor Asternus) cho những vị Người ủy thác việc phải truyền đạt và giảng dạy sự thật này (x.Mt.28:19) - như Công Đồng Chung Vaticanô II cũng đã xác nhận rõ ràng (x.Lumen Gentium, đoạn 17-28) - hơn thế nữa, Người còn ban cho cả Dân của Thiên Chúa một cảm nhận đặc biệt về đức tin (x.Lumen Gentium, đoạn 12,35)...

            "... Bởi thế, không ai có thể làm cho thần học trở thành như một tổng hợp giản dị của những tư tưởng cá nhân mình, trái lại, mọi người phải biết gắn bó với sứ mệnh truyền dạy sự thật mà Giáo Hội chịu trách nhiệm.

            "Việc chia sẻ với sứ vụ tiên tri của Chính Chúa Kitô làm nên sự sống của toàn Giáo Hội theo chiều kích sâu xa nhất của nó. Việc chia sẻ riêng biệt với sứ vụ tiên tri này thuộc về các vị chủ chiên trong Giáo Hội, những vị giảng dạy và tiếp tục, bằng những cách thức khác nhau, công bố và truyền đạt giáo điều liên quan đến đức tin và luân lý Kitô giáo...

            "... Giáo Hội hôm nay đây, được hướng dẫn bằng một cảm nhận về trách nhiệm đối với sự thật, phải kiên trì sống trung thực với bản tính của mình, một bản tính bao gồm sứ vụ tiên tri phát xuất từ Chính Chúa Kitô: 'Như Cha đã sai Thày thế nào, Thày cũng sai các con như vậy... Hãy nhận lấy Thánh Linh' (Jn.20:21-22)".

 

5)  "Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại" trong tông thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến:

 

Chúa Kitô, Ngôi Con là một với Chúa Cha, là Đấng mạc khải dự án của Thiên Chúa cho tất cả mọi tạo vật, đặc biệt là cho con người.

            "Chúa Kitô, Đấng cứu chuộc thế giới, là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, nên không có một danh hiệu nào khác ở dưới gầm trời này có thể cứu được chúng ta (x.Acts 4:12). Như chúng ta đọc thấy trong Thư gửi cho các tín hữu Êphêsô: 'Nơi Đức Kitô, chúng ta nhờ máu của Người mà được ơn cứu chuộc, được ơn tha thứ những lỗi phạm của mình, theo ân sủng dồi dào Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên chúng ta. Vì Thiên Chúa đã tỏ cho chúng ta, bằng tất cả khôn ngoan và sáng suốt... mục đích của Ngài đã phác họa nơi Chúa Kitô một dự án cho thời điểm viên trọn, mục đích đó là hiệp nhất tất cả trong Người, những sự trên trời cùng những sự dưới đất' (1:7-10). Vì thế, Chúa Kitô, Ngôi Con là một với Chúa Cha, là Đấng mạc khải dự án của Thiên Chúa cho tất cả mọi tạo vật, đặc biệt là cho con người. Theo một câu đáng nhớ của Công Đồng Chung Vaticanô II thì Chúa Kitô 'hoàn toàn tỏ cho con người biết về chính con người và làm sáng tỏ ơn gọi cao trọng của họ' (hiến chế Gaudium et Spes, đoạn 22). Người tỏ cho chúng ta ơn gọi này bằng việc mạc khải mầu nhiệm về Cha và về tình yêu của Cha".

(Tông thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, đoạn 4).

Đức Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật, Chúa của vũ trụ, cũng là Chúa của lịch sử, một lịch sử mà Người là 'Alpha và Omega' (Rev.1:8;21:6), là 'nguyên thủy và là cùng đích' (Rev.21:6). Nơi Người, Chúa Cha đã nói lên một lời thực sự về con người và về lịch sử của họ.

            "Việc 'trở nên một người trong chúng ta' (hiến chế Vui Mừng Và Hy Vọng, đoạn 22) nơi phần của Con Thiên Chúa đã xẩy ra hết sức khiêm hèn, nên không lạ gì các sử gia đời, chỉ chú trọng vào những biến cố náo động và những nhân vật danh tiếng, đã lấy Người, cho dù có quan trọng, cũng chỉ là những viện dẫn (references) mà thôi. Những viện dẫn về Chúa Kitô được tìm thấy trong 'Các Truyện Cổ Về Dân Do Thái', một tác phẩm do sử gia Flavius Josephus tổng hợp ở Rôma vào giữa những năm 93 và 94, và nhất là trong 'Annals' của Tacitus, được viết vào giữa những năm 115 và 120, một tài liệu mà khi tường thuật lại vụ thành Rôma bị cháy năm 64, Nêrô đã tưởng lầm là do những người Kitô giáo làm, nhà viết sử đã tỏ tường dẫn chứng về Chúa Kitô 'bị hành xử theo lệnh của quan tổng trấn Phongxiô Philatô trong triều đại Tibêriô'. Cả Suetonius nữa, trong cuốn truyện viết quãng năm 121 về đời của hoàng đế Claudiô, cho chúng ta biết rằng, những người Do Thái bị đuổi khỏi thành Rôma vì 'họ thường gây nên những cuộc phiến loạn theo xúi giục của một số Chrestus' (Vita Claudii 25:4). Đoạn văn này thường được cắt nghĩa như ám chỉ về Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã trở nên căn nguyên tranh cãi trong những cộng đồng Do Thái ở Rôma. Việc phát triển nhanh chóng của Kitô giáo cũng là một chứng cớ quan trọng, như đã được Tiểu Pliny, vị tổng trấn ở Bithynia, tường trình cho hoàng đế Trajan, vào giữa những năm 111 và 113, về tình hình có một số đông dân chúng thường hay tụ họp nhau 'vào một ngày ấn định, trước hừng đông, để luân phiên hát thánh ca chúc tụng Đức Kitô như là một vị Thiên Chúa' (Epist.10:96).

            Thế nhưng, biến cố vĩ đại mà những sử gia ngoài Kitô giáo chỉ đề cập đến qua loa ấy lại có một tầm vóc hết sức quan trọng nơi những bản văn của Tân Ước. Những bản văn này, cho dù có là những văn kiện về đức tin đi nữa, nếu chúng ta để ý đến mối iên hệ toàn diện của chúng, thì chúng cũng là những chứng cớ lịch sử không phải không đáng tin. Đức Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật, Chúa của vũ trụ, cũng là Chúa của lịch sử, một lịch sử mà Người là 'Alpha và Omega' (Rev.1:8;21:6), là 'nguyên thủy và là cùng đích' (Rev.21:6). Nơi Người, Chúa Cha đã nói lên một lời thực sự về con người và về lịch sử của họ. Lời này được diễn tả một cách tóm gọn và hùng hồn qua Bức Thư gửi cho giáo đoàn Do Thái: 'Bằng nhiều thể nhiều cách, xưa kia Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta nhờ các tiên tri; thế nhưng, trong những ngày sau hết này, Ngài đã nói với chúng ta qua Người Con' (Heb.1:1-2)"

(Tông thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, đoạn 4) 

Chúa Giêsu Kitô làm cho mọi sự đuợc tái tạo (x.Eph.1:10), đồng thời làm hoàn tất mọi sự trong Thiên Chúa: một hoàn tất làm vinh danh Thiên Chúa.

            "Chúa Giêsu được sinh ra từ dân tuyển chọn để hoàn tất lời hứa mà Abraham đã lãnh nhận và các tiên tri liên tục nhắc nhớ. Các tiên tri nhân danh Thiên Chúa và thay cho Ngài mà nói. Thật vậy, công cuộc của Cựu Ước được sắp xếp chính là để sửa soạn và loan truyền cho việc Đức Kitô đến, Đấng cứu chuộc hoàn vũ, cũng như cho vương quốc mà Người thiết lập. Bởi thế, những cuốn sách của Cựu Ưùớc mãi mãi là một chứng cớ cho một giáo thuyết thần linh xác thực (x. hiến chế Mạc Khải  đoạn 15). Giáo thuyết này đã đạt mục tiêu của nó nơi Đức Kitô: đúng thếø Chúa Giêsu không chỉ 'nhân danh Chúa' mà nói như các vị tiên tri, mà Người chính là Thiên Chúa nói bằng Lời hằng sống nhập thể của mình. Ở đây chúng ta chạm đến một điểm chính yếu làm cho Kitô giáo khác với tất cả mọi tôn giáo khác, những tôn giáo diễn tả việc con người tìm kiếm Thiên Chúa từ những thời cổ xưa nhất. Khởi điểm của Kitô giáo bắt nguồn từ việc Lời nhập thể. Như thế, không phải là con người tìm kiếm Thiên Chúa, mà là Thiên Chúa đích thân đến nói với chính con người, và chỉ cho con người đường nẻo để con người có thể đến với Ngài. Đó là điều đã được công bố trong Phần Nhập Đề của Phúc Âm thánh Gioan: "Chưa có ai đã từng thấy được Thiên Chúa; Người Con duy nhất, Đấng ở trong lòng Cha, Người đã tỏ Cha ra" (Jn.1:18). Như thế, Lời nhập thể làm thỏa nguyện ước vọng nơi tất cả các đạo giáo của nhân loại. Chính Thiên Chúa đã làm cho con người được thỏa nguyện, ngoài mọi ước mong của con người. Đó là một mầu nhiệm của ân sủng.

            "Nơi Chúa Kitô, tôn giáo không còn là một 'cuộc kiếm tìm Thiên Chúa một cách mù quáng' (Acts 17:27) nữa, mà là một đáp ứng của đức tin vào Thiên Chúa là Đấng tỏ mình ra. Nó là một đáp ứng mà con người nói với Thiên Chúa như với Hóa Công, với một Người Cha, một đáp ứng đã thành hiện thực nhờ một con người cũng chính là Ngôi Lời, mà nơi Người, Thiên Chúa đã nói với từng người, và nhờ Người mỗi người có thể đáp lại Thiên Chúa. Còn nữa, cũng ở nơi con người này mà mọi tạo vật đáp lại Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô là một khởi sự mới cho tất cả mọi sự. Nơi Người, tất cả mọi sự có; chúng được thăng hóa rồi được trả về cho Hóa Công là Đấng dựng nên chúng. Như thế, Đức Kitô là mãn nguyện của ước vọng cho mọi tôn giáo trên thế giới, nên Người làø tầm mức viên trọn đích thực duy nhất của họ. Thiên Chúa nói thẳng với con người nơi Đức Kitô thế nào, tất cả loài người và toàn thể tạo vật cũng tự mình nói với Thiên Chúa trong Đức Kitô như vậy, thực sự đó là việc tự hiến mình cho Thiên Chúa. Mọi vật trở về với cội nguồn của mình là vậy. Chúa Giêsu Kitô làm cho mọi sự đuợc tái tạo (x.Eph.1:10), đồng thời làm hoàn tất mọi sự trong Thiên Chúa: một hoàn tất làm vinh danh Thiên Chúa. Tôn giáo có nền tảng nơi Đức Kitô là một tôn giáo vinh quang; nó là một tầm vóc mới mẻ của sự sống để chúc tụng vinh quang Thiên Chúa (x.Eph.1:12). Tất cả mọi tạo vật thực sự là một biểu hiện của vinh quang Người. Đặc biệt con người (vivens homo) là sự hiển linh của vinh quang Thiên Chúa, một loài được kêu gọi để sống bằng sự sống viên trọn trong Thiên Chúa"

(Tông thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, đoạn 6).

 

 

Nhận Ðịnh


Trong bài giảng cho 3 giáo xứ thuộc giáo phận Rôma là Giáo Xứ Thánh Bridget, Hilary và Maximus, vào Thánh Lễ chiều Thứ Bảy 6/3/2004, ĐTC GPII đã nhắc lại bức Thông Điệp đầu tiên của Ngài vào ngày 4/3/1979, Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay như sau:


“Hãy lắng nghe và theo chân Chúa Kitô! 25 năm trước đây, vào lúc mở màn cho Mùa Chay, Tôi cảm thấy cần phải thúc giục toàn thể dân Kitô giáo hướng về cảm nghiệm cốt yếu này. ‘Chúa Giêsu là con đường chính yếu của Giáo Hội’, Tôi đã viết trong bức thông điệp đầu tiên của Tôi ‘Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần’, hỡi anh chị em thuộc các giáo xứ, một bức thông điệp Tôi muốn tượng trưng gửi đến anh chị em một lần nữa chiều hôm nay”.


Trong Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật II Mùa Chay 7/3/2004:


“Tôi muốn ngỏ lời huấn dụ này cho toàn thế giới 25 năm trước đây, chính vào lúc mở màn cho Mùa Chay này, trong thông điệp ‘Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần’ (xem số 7). Nếu con người muốn hiểu về mình cách tường tận, bấy giờ Tôi viết, họ cần phải đến gần Chúa Kitô, họ phải đi sâu vào Người, họ phải ‘thích hợp’ với Người và phải đồng hóa với toàn thể thực tại của công cuộc Cứu Chuộc (xem số 10). Hôm nay đây sự thật này hợp thời biết bao!” (đoạn 3)


Nhân dịp kỷ niệm 25 năm bức Thông Điệp tiên khởi của giáo triều Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, một giáo triều, vào ngày 14/3/2004, sẽ đứng hàng thứ ba sau Thánh Phêrô (35 năm, từ năm 33 tới 68) và Đức Giáo Hoàng Chân Phước Piô IX (31 năm: 16/6/1846-7/2/1878), qua mặt Ðức Lêô XIII (25 năm 5 tháng), tờ Nhật Báo Avvenire đã phỏng vấn vị linh mục HY Georges Cottier, nhà thần học giáo hoàng gia, vị linh mục người Thụy Sĩ dòng Đaminh sinh năm 1922, được ĐTC bổ nhiệm làm thần học gia cố vấn cho Ngài vào 12/1989 và vừa được Ngài phong tước hồng y ngày 21/10/2003.

Vấn     Khi mới đọc thông điệp “Redemptor Hominis”, điều gì đã làm cho ĐHY chú ý nhất?

Đáp     Bấy giờ tôi vẫn còn đang dạy học ở Thụy Sĩ. Tôi nhận thấy ngay cách thức vị Giáo Hoàng này đã phác họa cả một nhãn quan rộng lớn về các việc làm của Giáo Hội. Hôm nay đây, đọc lại văn kiện này sau một thời gian, người ta thực sự có thể nói rằng nơi bức thông điệp ấy họ đã thấy được một con đường nho nhỏ mà Ngài sẽ khai triển sau đó.

Vấn     Thưa ĐHY chẳng hạn như những gì?

Đáp     Tôi đang nghĩ đến tầm mức quan trọng của Hiến Chế “Vui Mừng và Hy Vọng” được Ngài xác nhận, một hiến chế chủ trương rằng Chúa Kitô gần gũi với hết mọi người khi tỏ mình cho họ nơi mầu nhiệm của Người. Đó là một tư tưởng được thấy liên tục nơi giáo huấn của Đức Gioan Phaolô II.

Tuy nhiên, trong thông điệp “Redemptor Hominis” còn có cả một đề tài về đại kết và đối thoại liên tôn nữa. Biến cố Assisi xẩy ra mãi sau này, nhưng khi đọc lại mới thấy một số chỗ của bức thông điệp này đã đề cập đến những điều ấy rồi.

Thế rồi cả đến việc nhấn mạnh tới các thứ quyền lợi của con người; đến sứ vụ trong viễn tượng của Giáo Hội; đến tâm điểm của Thánh Thể liên quan tới bí tích thống hối.

Trong văn kiện này ĐTC cũng đã đề cập tới cuộc mừng Đại Năm Thánh 2000.

Quả thực đây là điều đã làm tôi ngạc nhiên rất nhiều, đó là ngay vào năm 1979 mà năm 2000 đã là một chiều hướng đặc biệt đối với Ngài. Đó không phải là một điều gì gần đến: Còn cả 20 năm nữa mới tới; có thể nói rằng không ai trong Giáo Hội đã nghĩ đến Năm Thánh này.

Thế mà, ngay từ những lời đầu tiên nơi bức thông điệp này, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cho thấy cả một chân trời này khi Ngài phác tả con đường con đường dẫn đến năm 2000 như là một Mùa Vọng mới. Ở đây chúng ta lại thấy được cái nhãn quan bao rộng của Ngài.

Vấn     Việc nhấn mạnh về con người như là một mối quan tâm chính yếu của Giáo Hội vào năm 1979 đã có một tính cách quan trọng ra sao?

Đáp     Nó có một mãnh lực đặc biệt. Chúng ta không được quên rằng chủ nghĩa cộng sản của Mác đã có ý định đặt nền tảng cho một thứ nhân bản mới; nó được trình bày cho thấy như là một thứ kiến tạo nên một con người mới vậy.

Vị Giáo Hoàng xuất thân từ Balan này bắt đầu thừa tác vụ của mình bằng việc nhắc nhở chúng ta rằng Chúa Kitô mới là đường lối và đời sống là một cuộc hành trình hết mọi người phải tiến bước với Người cũng như trong sự bảo vệ của Người.

Đối diện với quan niệm tổng hợp hóa của Cộng Sản, Ngài đã khẳng định vấn đề ngôi vị tính. Nó như là một quả bom gài sẵn: Ở chỗ, những chữ Mác và Cộng Sản không hề được nhắc đến trong bức thông điệp “Redemptor Hominis”. Thế nhưng, một cách sâu xa, căn cứ vào tư tưởng con người cần phải có về con người, thì vị Giáo Hoàng này đã cho thấy cái đối chọi này.

Vấn     Như thế bức thông điệp này đã đặt nặng về đề tài nhân quyền.

Đáp     Ngài nói về các thứ quyền lợi của con người, và theo chiều hướng này, về quyền tự do tôn giáo là một trong những quyền lợi chính yếu của họ. Sau đó Ngài nhắc tới quyền sống.

Thế nhưng, ở đây người ta đã thấy được một quan niệm chính yếu khác nữa, đó là việc cảm nhận và tôn trọng con người là nền tảng của đạo đức học Kitô giáo.

Không phải là ngẫu nhiên mà trong các buổi giáo lý Thứ Tư hằng tuần, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói ngay tới đời sống hôn nhân cũng như gia đình và nói đến những điều đẹp đẽ. Con người không thể nào đạt được an lành nếu thiếu vắng quan niệm về đạo đức. Đó là đường hướng lên đến tuyệt đỉnh của mình nơi thông điệp Rạng Ngời Chân Lý “Veritatis Splendor”.

Vấn     ĐHY thấy được di sản nào của Công Đồng Chung Vaticanô II nơi bức thông điệp “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” này?

Đáp     Trước hết là một số những chủ đề lớn: Đó là những gì được vị Giáo Hoàng này gọi là việc tự ý thức của Giáo Hội, ý thức về mầu nhiệm của mình cũng như về nỗi yếu đuối của con người là phần thể của mình.

Không phải là tình cờ mà những suy tư của Ngài đã phát xuất từ văn kiện chính yếu của công đồng là Ánh Sáng Muôn Dân “Lumen Gentium”, một hiến chế tín lý về Giáo Hội. Thế rồi thực sự còn phản ảnh cả tính cách chính yếu về chiều kích ngôi vị và con người của hiến chế “Gaudium et Spes” nữa.

Đối với Giáo Hội, Ngài đã nói rất rõ về đoàn tính cũng như về vai trò của các hội đồng giám mục. Thế nhưng Ngài cũng tiếp nối Công Đồng về chủ đề truyền giáo khi nói đến vấn đề quan trọng là việc rao giảng bao giờ cũng phải được bắt đầu bằng việc tôn trọng con người không phải Kitô giáo. Đó là một nhận định thật là đẹp.

Vấn     ĐHY có thấy những việc làm nào của giáo triều này đã không được viễn ảnh thấy nơi văn kiện hoạch định này?

Đáp     Dĩ nhiên vị Giáo Hoàng này đã không thể nào thấy trước được những việc làm bất ngờ của Thần Linh; những vấn đề từ từ xuất hiện. Tuy nhiên, Ngài là một con người liên lỉ lắng nghe Thánh Linh.

Việc sụp đổ của Bức Tường Bá Linh đã không được thấy trước…. Ngay cả cuốn Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo chẳng hạn là một ý tưởng sau này mới có qua suy tư của thượng hội giám mục.

Trong văn kiện 1979, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói xa xa tới cuộc khủng hoảng hậu công đồng. Ngài ca ngợi đường lối đã được Đức Phaolô VI đề cập tới. Thế nhưng vẫn không thể nào biết rằng cuộc khủng hoảng này sẽ kéo dài bao lâu và Ngài cũng phải nhúng tay can thiệp ở một số lãnh vực để nhắc nhở sự thật. Và Ngài quả thực đã làm như thế.

Chắc chắn Ngài đã có một cái nhìn tin tưởng. Nơi lời nguyện kết thúc văn kiện ấy, Ngài đã gọi Mẹ Maria là Mẹ của Niềm Hy Vọng. Đó là một tước hiệu rất thân thương đối với con người của Ngài. Lời đầu tiên của Ngài với tư cách là Giáo Hoàng đó là: “Đừng sợ”. Và thông điệp “Redemptor Hominis” đưa chúng ta tới một bầu khí lạc quan. Nó chất chứa đầy những phấn khởi.

Vấn     Nếu ĐHY cần phải đề nghị một điều gì đó về việc tái nhận thức thông điệp “Redemptor Hominis” thì ĐHY sẽ nói đến điều nào?

Đáp     Đó là việc khẳng định rằng chỉ ở nơi Chúa Kitô con người mới hoàn toàn nhận thức được bản thân mình.

Đó là một sự thật rất quan trọng ngày nay, khi chúng ta đang phải đối diện với những vấn đề mới về vấn đề đạo đức sinh học, những vấn đề liên quan tới việc bắt đầu và chấm dứt sự sống. Dĩ nhiên, một mình trí khôn cũng có thể nói cho chúng ta biết chúng ta cần phải có một thái độ tôn trọng.

Thế nhưng, như vị Giáo Hoàng này vẫn thường nhắc nhở chúng ta, việc nhận thức được rằng nơi mầu nhiệm nhập thể, Chúa Kitô đã liên kết bản thân Người với hết mọi người, cho dù là kẻ hèn mọn nhất, vẫn là một mãnh lực đặc biệt đối với chiều hướng nhìn đời này.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu được Zenit phổ biến ngày 7/3/2004